Tâm lý học cá nhân của Alfred Adler không chỉ giải mã động lực sống mà còn mở ra góc nhìn mới về sự phát triển cá nhân và mối quan hệ xã hội. Với trọng tâm là vượt qua cảm giác tự ti và đạt được cảm giác thuộc về, lý thuyết này mang đến cách tiếp cận sâu sắc về cách chúng ta tương tác với thế giới và chính bản thân mình. Hãy cùng khám phá những nguyên lý cốt lõi của tâm lý học Adler và ứng dụng thực tiễn trong đời sống.
Tâm lý học cá nhân là gì?
Tâm lý học cá nhân nhấn mạnh rằng để đạt được thành công và hạnh phúc con người cần vượt qua cảm giác tự ti và có được cảm giác thuộc về. Lý thuyết này cũng tập trung vào tầm quan trọng của các tương tác xã hội và sự tham gia của cộng đồng nhằm thúc đẩy sự phát triển của cá nhân.
Theo Adler, cảm giác tự ti có thể dẫn đến hành vi loạn thần kinh nhưng, trong bối cảnh phù hợp, cũng có thể được sử dụng làm động lực để phấn đấu đạt được hành công lớn hơn. Liệu pháp Adlerian tập trung vào sự phát triển nhân cách cá nhân đồng thời hiểu và chấp nhận mối liên hệ với nhau của tất cả con người.
Lý thuyết Adler cho rằng con người luôn cố gắng thỏa mãn những mong muốn nhất định và đạt được những mục tiêu cụ thể. Cách đạt được những mục tiêu đó có thể khác nhau rất nhiều ở mỗi người, tùy thuộc vào tính cách và quá trình trưởng thành của họ.

Các nguyên lý cơ bản trong tâm lý học cá nhân
Adler được xem như nhà tâm lý học về cái tôi (Ego – psychologist) vì ông đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của ý thức cá nhân. Tức là con người có ý thức về động động cơ sâu kín của hành vi, cử chỉ của bản thân họ.
Adler cho rằng động cơ thúc đẩy con người là:
- Bù đắp sự thiếu hụt (Compensation): Ông dùng khái niệm động lực xung động (aggression drive) để diễn đạt cách thức mà vô thức thúc giục con người tiến lên mà hoàn thành các nhu cầu. Hay ông còn gọi đây là quá trình phấn đấu để vượt qua trở ngại (strive to overcome). Theo Adler, tất cả chúng ta đều có những vấn đề, những thiếu sót và cả những khiếm khuyết trong nhiều lĩnh vực đời sống. Tuy nhiên, ông không tìm cách liệt kê cụ thể những vấn đề khiếm khuyết vì ông không muốn con người ngộ nhận đấy là những vấn đề do chính họ tự tạo ra.
- Khái niệm lối sống (style of life): Adler quan niệm rằng để hiểu một con người cần đặt họ và một bối cảnh đời sống và môi trường sống của người đó thay cho việc chỉ nhìn vào một vài phân diện cụ thể nào. Hay nói cách khác đây là một đánh giá tổng thể toàn diện và không thể chia cắt. Phong cách sống theo Adler là một ‘cây cá nhân’, cây lớn lên và tạo dáng hay biến đổi để thích nghi với điều kiện nơi đó.
- Hướng tới sự hoàn thiện (Striving for superiority): tất cả đều khát khao trở nên hoàn thiện (perfection) và lý tưởng hơn (ideal) nhưng ông cũng nói đấy chỉ là sự tiệm cận tương đối chứ không hoàn toàn đạt được. Một triết thuyết của Hans Vaihinger mà Adler tâm đắc cho rằng điều đúng đắn, hoàn thiện luôn ngoài tầm với của ta, chúng ta phải luôn hướng về phía trước để không ngừng tiệm cận với điều hoàn thiện.
- Lợi ích/ hứng thú xã hội (social interest): Tên nguyên thủy của khái niệm này là “cảm thức cộng đồng” đây là một nét chủ yếu của khái niệm tổng thể toàn diện. Theo Adler thì chúng ta không chỉ phấn đấu trong để hoàn thiện cho sự phát triển của riêng mình mà chúng ta phấn đấu trong bối cảnh liên đới với xã hội. Chính những động cơ này đã tạo ra những hứng thú xã hội. Nếu không quan tâm và phát huy những hứng thú xã hội này sẽ biến mất dần.
- Trạng thái mặc cảm/tự ti (Inferiority): khi quá trình hoàn thiện bị thất bại, con người thường thu mình và chỉ tập trung vào những khiếm khuyết của bản thân. Ban đầu, Adler quan tâm đến những khiếm khuyết về thể lý/cơ thể, trong quá trình phấn đấu con người thường dùng những bộ phận khác để bù đặp lại. Tuy thế cũng có người chìm vào tự ti và chấp nhận sự khiếm khuyết như mặc định phải có. Dần dần, Adler mở rộng sang khiếm khuyết tâm lý. Mặc cảm về sự thiếu năng lực, thành công hay bị dè bĩu về điều gì đó từ người khác làm hằn sâu mặc cảm về sự thiếu hụt. Ngay cả khi không có “dấu vết” của khiếm khuyết thể lý hay tâm lý thì theo Adler sự tự ti/mặc cảm vẫn hiện diện phổ biến, ví dụ trẻ con thường thể hiện mong muốn lớn nhanh, khỏe hơn, to hơn, có quyền lực hơn thông qua các trò chơi hay tưởng tượng.
Với Adler vấn đề thiếu hứng thú xã hội dẫn đến 4 tuýp tâm lý được quyết định bởi nguồn năng lượng àm một cá nhân sử dụng để tiếp cận những người xung quanh:
- Tuýp điều khiển (ruling type): thích chế ngự, thao túng người khác. (có thể dùng cả sinh mạng hay sự tổn thương của chính mình để điều khiển)
- Tuýp dựa dẫm (leaning type): ít nhiệt huyết, lệ thuộc người khác, yếm thế, dễ suy nghĩ tiêu cực, khó hình thành nên phong cách sống cá nhân.
- Tuýp tránh né (avoiding type): tránh né tham gia vào đời sống xã hội, co cụm vào bản thân.
- Tuýp lợi ích xã hội (socially useful type): có cảm thức cộng đồng và năng lượng dồi dào để hướng đến hoàn thiện cái tôi.
Cá nhân chịu ảnh hưởng từ lối sống ở tuổi thơ
Adler tin rằng có 3 loại tình huống tuổi thơ cơ bản có ảnh hưởng trong việc thiết lập tạo ra những mẫu lối sống lệch lạc:
Mẫu hình sống lệch lạc | Những tình huống khởi sinh | Biểu hiện |
Mặc cảm khiếm khuyết cơ thể (organ inferiority) | Sự khó chịu về việc cơ thể bị khiếm khuyết; thiếu năng lực thoát khỏi cảm giác tự ti | Cảm giác về sự bất lực, mặc cảm thái quá hoặc bù đắp một cách thái hóa, cảm giác siêu đẳng hão huyền. |
Nuông chiều quá mức (pampering) | Được nuông chiều quá mức từ người chăm sóc, đòi hỏi được đáp ứng quá mức | Không chịu học cách để hình thành bản sắc cá nhân, không thể hợp tác hay hòa đồng với người khác. |
Bỏ rơi (neglect) | Bị bỏ rơi hay bị chối bỏ thời thơ ấu | Không hoàn thành cảm thức cộng đồng, khắc nghiệt và không tin tưởng vào bất kì ai đôi khi là chính bản thân. |
Nhân cách chịu ảnh hưởng bởi thứ tự sinh
Adler được xem như là người đầu tiên đề cập đến vai trò của các anh chị em lên nhân cách của một cá nhân:
- Con một/con độc nhất: Là đứa trẻ được chiều chuộng, thường có sự phát triển nhân cách được quy định hoàn toàn bởi sự giáo dục của cha mẹ. Là người nhận hoàn toàn kì vọng nơi cha mẹ và cũng sẽ hứng chịu tất cả áp lực nếu cha mẹ là người hà khắc.
- Con đầu lòng/ con cả: Được quan tâm yêu thương nhất khi chưa có em. Chịu hoàn cảnh chia sẻ tình thương khi các em ra đời. Mang kì vọng về sự gương mẫu, nên thường thành công nhất, kỉ luật và hà khắc hơn các êm. Cũng là người chịu đựng nhiều áp lực trong việc thất bại vai trò anh/chị cả.
- Con thứ: Thường có vai trò là người ổn định các mối quan hệ trong gia đình. Luôn khao khát cạnh tranh phấn đấu và cố vượt qua anh/chị cả. Có những thành công nhất định và luôn tồn tại cảm giác ganh đua và thử thách.
- Con út: là đứa con nhận nhiều tình yêu thương nhất và ít tồn tại sự cạnh tranh. Cũng là người dễ gặp nhiều thách thức như con đầu lòng. Thường không tồn tại động lực phấn đấu nhiều, tuy nhiên nếu có động lực ganh đua thì đứa trẻ này luôn muốn là người dẫn đầu.
Adler đưa ra một quan niệm về yếu tố cách quãng giữa hai lần sinh của người mẹ sẽ thay đổi nhiều về vị trí của những đứa trẻ. Khoảng cách 5 năm sẽ là phù hợp để định vị vai trò của từng đứa trẻ, nếu khoảng cách quá xa thì những đứa con đầu sẽ đóng vai trò là “cha mẹ thứ 2”.
Để tìm ra những khung chung cho một cá nhân vận dụng để xây dựng bản thân, Adler khuyến cáo nên nhind vào cá nhân ấy dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Từ tuổi thơ, các mối quan hệ gia đình và xã hội và cả cách người đó phản ứng với những kích thích bên ngoài.
Ứng dụng tâm lý học cá nhân trong đời sống
Trong giáo dục và nuôi dạy trẻ
Theo Adler, khi trẻ không cảm thấy hữu ích và không cảm thấy mình thuộc về thì những mục tiêu kém tích cực hơn sẽ chiếm ưu thế. Bốn mục tiêu tâm lý chính của hành vi sai trái ở trẻ em là: để có được sự chú ý, để có được quyền lực hoặc sự kiểm soát, để trả thù, để thể hiện sự không thỏa đáng.
Adler cũng cho rằng điều may mắn nhất đối với một đứa trẻ là sự phát triển lòng dũng cảm để đương đầu với cuộc sống bằng cách cho phép chúng trải nghiệm những hậu quả tự nhiên do hành động của mình mà không sợ hãi.

Adler xác định hai phong cách nuôi dạy con cái là: nuông chiều và bỏ bê.
- Nuông chiều: đề cập đến việc bảo vệ trẻ em quá mức, dành cho chúng quá nhiều sự quan tâm và bảo vệ chúng khỏi những khó khăn, khắc nghiệt của cuộc sống. Điều này dẫn đến việc khả năng đối phó với thực tế cuộc sống của trẻ em kém và có mức độ phụ thuộc cao.
- Bỏ bê: đề cập đến việc trẻ nhận được rất ít sự hỗ trợ. Khi trưởng thành lớn lên trong nỗi sợ hãi thế giới, không tin tưởng người khác và gặp khó khăn trong việc hình thành các mối quan hệ thân thiết giữa các cá nhân.
Mặc dù cả đứa trẻ được cha mẹ nuông chiều và bị bỏ bê đều nhận được những cách đối xử khác nhau của cha mẹ, nhưng kết quả cuối cùng của việc điều trị có thể giống nhau: cảm giác không thỏa đáng.
Nhiều ý tưởng của Adler về kỹ thuật nuôi dạy con tốt bao gồm:
- Sự tôn trọng: cha mẹ thể hiện sự tôn trọng đối với con đồng thời khiến con tôn trọng họ – sẽ dạy con tôn trọng bản thân và người khác.
- Sự khích lệ: giúp trẻ phát triển lòng tự tin bằng sự khích lệ thay vì chỉ trích sẽ chỉ khiến trẻ cảm thấy chán nản và tin rằng mình không thể thành công.
- Hậu quả tự nhiên và hợp lý: điều này cho phép trẻ trải nghiệm và học hỏi từ kết quả hành vi của mình.
- Đặt ra quyền tự do và giới hạn cho trẻ
Trong tư vấn tâm lý và trị liệu

Theo Adler, việc thuộc về một nhóm xã hội và hòa nhập với người khác là những nhu cầu cơ bản. Hậu quả tiêu cực của việc “không thuộc về” là giảm chức năng nhận thức, tăng mức cortisol, căng thẳng, thường có nguy cơ trầm cảm, thất vọng, tức giận và xa lánh xã hội
Adler tin rằng nếu một cá nhân không thể tìm thấy vị trí của mình trong cuộc sống, họ sẽ trở nên chán nản và có thể thực hiện các hành vi gây rối để tìm vị trí của mình.
Mục tiêu của liệu pháp Adler là thay thế những niềm tin tiêu cực lâu nay và giúp các cá nhân trở nên tự chủ, tự tin và được trao quyền cho xã hội hơn.
So sánh tâm lý học Adler và Freud
Adler và Freud đều là hai nhà tư tưởng và bác sĩ nổi tiếng của Áo đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của tâm lý học và thành lập những trường phái độc đáo nhấn mạnh những cách tiếp cận khác nhau đối với khái niệm nhân cách. Adler và Freud tin rằng họ có thể giải thích các vấn đề tâm lý của con người và đưa ra những hướng dẫn để chống lại chứng rối loạn và bệnh tật bằng cách chuyển những cảm giác và ham muốn chán nản vô thức sang ý thức.
Khía cạnh cơ bản của lý thuyết Adler tập trung vào bản chất không thể chia cắt của nhân cách, xác định ảnh hưởng của mối quan hệ thân thiết giữa bạn bè, người thân và xã hội đối với nhân cách, đây được xem là mâu thuẫn trực tiếp với cách tiếp cận của Freud, vốn tập trung vào việc chia tâm lý con người thành ba phần chính: cái nó, cái tôi và cái siêu tôi (hay bản năng, bản ngã và siêu bản ngã). Phương pháp của Adler tập trung vào xã hội và tác động của nó đối với nhân cách, còn Freud phân tích những sự kiện quan trọng có thể hình thành nên nhân cách. Cách tiếp cận của Adler phân tích tốt hơn vai trò của xã hội trong việc hình thành một cá nhân, trong khi khuôn khổ của Freud có giá trị hơn khi giải quyết các vấn đề riêng biệt của từng cá nhân.
Quan điểm phân tâm học của Freud có rất ít chỗ cho những ảnh hưởng bên ngoài đến việc ra quyết định trong tương lai, nhưng Adler tin rằng quá khứ tiếp tục ảnh hưởng đến những lựa chọn mà con người đưa ra trong suốt cuộc đời của họ. Trong khi Freud tin rằng căng thẳng tình dục là một trong những động lực cơ bản của con người thì Adler lại tin rằng con người được thúc đẩy bởi các mối quan hệ xã hội. Freud tin rằng các yếu tố bản năng đã thúc đẩy con người trong khi Adler tin rằng con người có thể và thực sự đưa ra những quyết định có ý thức.
Kết luận
Nhiều nghiên cứu cho thấy, trị liệu Adler có hiệu quả với những người đang vật lộn với chứng lo âu, trầm cảm, tâm thần phân liệt, rối loạn ăn uống, lạm dụng chất gây nghiện, rối loạn nhân cách, …
Tìm hiểu thêm về các chứng bệnh Trầm cảm, Rối loạn tâm lý
Các phương pháp điều trị dựa trên học thuyết Adler nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham gia cộng đồng và tương tác xã hội để thúc đẩy sự phát triển của cá nhân. Bằng cách giải quyết cảm giác tự ti đóng vai trò trong sự mất kết nối xã hội, liệu pháp Adler giúp thân chủ lấy lại ý thức về bản thân, thích nghi tốt hơn với những thay đổi và tìm thấy sự hỗ trợ xã hội mà họ cần để phát triển.
Mặc dù các phương pháp tiếp cận của Adler tránh việc xem những vấn đề của thân chủ là bệnh lý, tuy nhiên nó liên quan đến việc khám phá và đối mặt với những ký ức đôi khi có thể gây đau đớn hoặc khó chịu cho thân chủ, vì vậy điều quan trọng là hãy cân nhắc xem bạn đã thật sự sẵn sàng và muốn đào sâu vào quá khứ của mình hay chưa. Việc đánh giá một cách nghiêm túc các hành vi hiện tại của bản thân và ủng hộ sự thay đổi là điều cần thiết giúp bạn thành công khi tìm kiếm một phương pháp tâm lý phù hợp cho mình.
Tài liệu tham khảo
- Kendra Cherry, MS,.(2023). What to Know About Adlerian Theory. Retrieved from https://www.verywellmind.com/alderian-theory-definition-techniques-and-efficacy-5213796
- Rommy Cedeno; Tyler J.Torrico.(2024). Adlerian Therapy. Retrieved from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK599518/
- (2024). Adlerian Theory. Retrieved from https://www.betterhelp.com/advice/psychologists/adlerian-theory-understanding-the-individual/
- (2023, September 4). Alfrd Adler and Sigmund Freud. Retrieved from https://psychologywriting.com/alfred-adler-and-sigmund-freud/
- Nguyễn Thơ Sinh (2020). Các học thuyết tâm lý nhân cách. Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Lao động.