Rối loạn lưỡng cực là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến, ảnh hưởng sâu sắc đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của người mắc bệnh. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về căn bệnh này, từ nguyên nhân, triệu chứng, phương pháp chẩn đoán, đến các liệu pháp điều trị và cách sống chung. Qua đó, bạn sẽ biết cách hỗ trợ bản thân hoặc người thân vượt qua những thử thách do rối loạn lưỡng cực mang lại.
Rối loạn lưỡng cực là gì?
Rối loạn lưỡng cực, hay còn gọi là rối loạn hưng – trầm cảm, là một rối loạn tâm thần đặc trưng bởi sự thay đổi thất thường và cực đoan giữa các giai đoạn hưng cảm (tâm trạng phấn khích, năng lượng dồi dào) và trầm cảm (tâm trạng buồn bã, chán nản) (APA, 2013). Những thay đổi này có thể xảy ra đột ngột và không có lý do rõ ràng, gây ra nhiều khó khăn trong cuộc sống, công việc, học tập và các mối quan hệ của người bệnh.
Tìm hiểu thêm về các dạng rối loạn tâm lý khác tại bài viết: Rối loạn tâm lý: Phân loại, nguyên nhân và các phương pháp điều trị

Các dạng rối loạn lưỡng cực
Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, ấn bản thứ 5 (DSM-5) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (APA, 2013), rối loạn lưỡng cực được chia thành 5 dạng chính, mỗi dạng có những đặc điểm riêng biệt:
- Rối loạn lưỡng cực I: Đặc trưng bởi ít nhất một giai đoạn hưng cảm rõ rệt, có thể kèm theo hoặc không kèm theo các giai đoạn trầm cảm. Giai đoạn hưng cảm trong rối loạn lưỡng cực I thường rất dữ dội, người bệnh có thể cảm thấy tràn đầy năng lượng, hưng phấn tột độ, nói nhiều, hoạt động liên tục, ngủ rất ít, và có những suy nghĩ, hành vi thiếu thực tế, thậm chí liều lĩnh, gây ảnh hưởng đến công việc, học tập và các mối quan hệ. Trong một số trường hợp, giai đoạn hưng cảm có thể nghiêm trọng đến mức gây ra ảo giác, hoang tưởng, hoặc cần phải nhập viện để điều trị.
- Rối loạn lưỡng cực II: Đặc trưng bởi các giai đoạn hưng cảm nhẹ (hypomania) và các giai đoạn trầm cảm nặng. Giai đoạn hưng cảm nhẹ ít nghiêm trọng hơn so với giai đoạn hưng cảm trong rối loạn lưỡng cực I, người bệnh có thể cảm thấy vui vẻ, năng động, sáng tạo hơn bình thường, nhưng vẫn duy trì được khả năng kiểm soát hành vi và không gây ra suy giảm chức năng nghiêm trọng. Tuy nhiên, các giai đoạn trầm cảm trong rối loạn lưỡng cực II thường rất nặng nề, ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của người bệnh, khiến họ mất hứng thú với mọi thứ, cảm thấy vô vọng, thậm chí có ý định tự tử.
- Rối loạn khí sắc theo chu kì (Cyclothymic Disorder): Đặc trưng bởi các triệu chứng hưng cảm nhẹ và trầm cảm nhẹ kéo dài ít nhất hai năm. Các triệu chứng không đủ nghiêm trọng để được chẩn đoán là rối loạn lưỡng cực I hoặc II, nhưng vẫn gây ra nhiều khó khăn cho người bệnh, ảnh hưởng đến tâm trạng, năng lượng, giấc ngủ, khả năng tập trung, và sự ổn định trong công việc và các mối quan hệ.
- Rối loạn lưỡng cực do chất kích thích/thuốc: Được xác định bởi sự hiện diện của rối loạn tâm trạng phù hợp với hưng cảm phát sinh trong hoặc ngay sau khi tiếp xúc, nhiễm độc hoặc cai một chất (ví dụ: cocaine, corticosteroid) có khả năng tạo ra các triệu chứng như vậy.
- Rối loạn lưỡng cực và rối loạn liên quan do một tình trạng bệnh lý khác: Được xác định bởi sự hiện diện của rối loạn tâm trạng phù hợp với hưng cảm do tình trạng thuốc gây ra (ví dụ: hội chứng Cushing, chấn thương sọ não) và không xảy ra riêng trong giai đoạn mê sảng.
Tỷ lệ mắc bệnh rối loạn lưỡng cực
Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ (NIMH, 2022), khoảng 2,8% người trưởng thành ở Hoa Kỳ mắc rối loạn lưỡng cực. Bệnh thường khởi phát ở độ tuổi thanh thiếu niên hoặc đầu tuổi trưởng thành, với độ tuổi trung bình là 25. Tuy nhiên, bệnh cũng có thể khởi phát ở trẻ em hoặc người lớn tuổi. Theo thống kê tỷ lệ người mắc rối loạn cảm xúc lưỡng cực chiếm 1% dân số toàn thế giới. Bệnh xảy ra ở cả 2 giới và tỷ lệ mắc bệnh không có sự khác biệt giữa 2 giới tính. Đặc biệt, rối loạn lưỡng cực có yếu tố di truyền. Cá nhân có nguy cơ cao mắc rối loạn khi cha/mẹ ruột của họ bị rối loạn lưỡng cực. Tỷ lệ hiện mắc suốt đời là khoảng 2% (Merikangas KR, 2007).
Nguyên nhân gây ra rối loạn lưỡng cực
Nguyên nhân chính xác của rối loạn lưỡng cực vẫn chưa được biết rõ, nhưng các nhà khoa học cho rằng sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm di truyền, sinh học và môi trường, có thể đóng vai trò quan trọng (Miklowitz & Johnson, 2006).
Yếu tố di truyền
Rối loạn lưỡng cực có tính di truyền cao. Nếu có người thân trong gia đình mắc bệnh, nguy cơ mắc bệnh của bạn sẽ cao hơn. Nghiên cứu cho thấy rằng khoảng 80-90% nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực là do yếu tố di truyền (Kieseppa et al., 2004).
Trong một nghiên cứu khác cho thấy rằng nếu có người thân trong gia đình mắc bệnh, nguy cơ mắc bệnh của bạn sẽ cao hơn đáng kể so với người bình thường (Craddock & Sklar, 2013). Ví dụ, nếu cha mẹ bạn mắc rối loạn lưỡng cực, nguy cơ mắc bệnh của bạn có thể lên đến 10-25%. Các nghiên cứu về di truyền học đã xác định được một số gen có liên quan đến rối loạn lưỡng cực, mặc dù không có một gen duy nhất nào gây ra bệnh.
Yếu tố sinh học
- Sự mất cân bằng hóa học thần kinh: Các chất dẫn truyền thần kinh, chẳng hạn như serotonin, dopamine, và norepinephrine, đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh tâm trạng, giấc ngủ, sự tập trung, và các chức năng khác của não bộ. Sự mất cân bằng của các chất này có thể góp phần gây ra rối loạn lưỡng cực. Ví dụ, nghiên cứu cho thấy những người mắc rối loạn lưỡng cực có thể có sự mất cân bằng của các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, dopamine, và norepinephrine (Soeiro et al., 1993). Trong một nghiên cứu khác cho thấy những người mắc rối loạn lưỡng cực có thể có sự suy giảm hoạt động của serotonin và tăng hoạt động của dopamine (Kapczinski et al., 2008).
- Những bất thường trong cấu trúc não: Các nghiên cứu hình ảnh não cho thấy những người mắc rối loạn lưỡng cực có thể có những bất thường trong cấu trúc và chức năng của một số vùng não, chẳng hạn như amygdala (liên quan đến xử lý cảm xúc), hồi hải mã (liên quan đến trí nhớ), và vỏ não trước trán (liên quan đến chức năng điều hành) (Strakowski et al., 2012). Những bất thường này có thể ảnh hưởng đến khả năng điều chỉnh tâm trạng và kiểm soát hành vi của người bệnh.
- Các yếu tố nội tiết: Sự thay đổi nội tiết tố, chẳng hạn như trong thời kỳ dậy thì, mang thai, hoặc mãn kinh, có thể làm tăng nguy cơ khởi phát hoặc tái phát rối loạn lưỡng cực. Ví dụ, phụ nữ có nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực cao hơn nam giới, và các triệu chứng thường trở nên nghiêm trọng hơn trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc sau khi sinh con (Viguera et al., 2002).
Yếu tố môi trường
Các yếu tố môi trường cũng có thể góp phần vào sự khởi phát và làm trầm trọng diễn biến của rối loạn lưỡng cực. Một số yếu tố môi trường đáng chú ý bao gồm:
- Stress: Stress mãn tính hoặc các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống, chẳng hạn như mất mát người thân, ly hôn, thất nghiệp, hoặc gặp khó khăn về tài chính, có thể làm tăng nguy cơ khởi phát rối loạn lưỡng cực hoặc làm trầm trọng thêm các triệu chứng. Nghiên cứu cho thấy rằng những người mắc rối loạn lưỡng cực thường nhạy cảm hơn với stress và có khả năng đối phó với stress kém hơn so với người bình thường (Johnson & Miller, 1997).
- Chấn thương tâm lý: Trải qua chấn thương tâm lý, chẳng hạn như lạm dụng thể chất, tình dục, hoặc tinh thần, đặc biệt là trong thời thơ ấu, có thể làm tăng nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực. Những người từng trải qua chấn thương tâm lý (thời thơ ấu) sẽ có nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực cao hơn (MacMillan et al., 2001), với những người trải từng trải qua chấn thương tâm lý – họ sẽ có nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực cao gấp đôi so với người bình thường (Kessler et al., 2010).
- Lạm dụng chất kích thích: Lạm dụng rượu bia hoặc ma túy có thể làm tăng nguy cơ khởi phát rối loạn lưỡng cực hoặc làm trầm trọng thêm các triệu chứng. Chất kích thích có thể gây ra những thay đổi tạm thời trong tâm trạng, nhưng việc lạm dụng lâu dài có thể gây ra những rối loạn tâm thần nghiêm trọng, bao gồm cả rối loạn lưỡng cực.
Nhận biết các dấu hiệu của rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực bắt đầu bằng giai đoạn cấp tính của các triệu chứng trầm cảm hoặc hưng cảm, sau đó là quá trình thuyên giảm và tái phát lặp đi lặp lại. Sự thuyên giảm thường hoàn toàn, nhưng nhiều bệnh nhân có các triệu chứng tồn dư, và một số thì khả năng làm việc ở nơi làm việc bị suy giảm trầm trọng. Các đợt tái phát là những giai đoạn riêng biệt của các triệu chứng ở cường độ cao hơn. Đó là hưng cảm, trầm cảm, trầm cảm nhẹ, hoặc hỗn hợp các tính trạng trầm cảm và hưng cảm.
Các giai đoạn kéo dài từ vài tuần đến 3 hoặc 6 tháng; giai đoạn trầm cảm thường kéo dài hơn giai đoạn hưng cảm.
Các chu kỳ (thời gian từ khi khởi phát của một giai đoạn đến thời điểm khởi phát giai đoạn tiếp theo) khác nhau giữa các bệnh nhân. Một số bệnh nhân có giai đoạn không thường xuyên chỉ một vài giai đoạn trong suốt cuộc đời, trong khi một số khác lại có các dạng chu kỳ nhanh (thường được định nghĩa là ≥ 4 giai đoạn/năm). Chỉ có một ít bệnh nhân thay đổi luân phiên giữa hưng cảm và trầm cảm trong mỗi chu kỳ; trong hầu hết, một cực hay cực khác chiếm nổi trội.
Bệnh nhân có thể toan tự sát hoặc tự sát thành công. Tỷ lệ tự tử trong đời ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực được ước tính cao ít nhất từ 20 đến 30 lần so với dân số nói chung
Giai đoạn hưng cảm
Trong giai đoạn hưng cảm, người bệnh có thể trải qua những thay đổi đáng kể về tâm trạng, năng lượng và hành vi. Một giai đoạn hưng cảm được định nghĩa là ≥ 1 tuần tâm trạng tăng cao, cởi mở hoặc cáu kỉnh dai dẳng và tăng liên tục các hoạt động hướng đến mục tiêu hoặc tăng năng lượng rõ rệt cộng với ≥ 3 triệu chứng bổ sung (hoặc ≥ 4 nếu tâm trạng chỉ cáu kỉnh). Dưới đây là một số triệu chứng phổ biến:
- Tâm trạng hưng phấn: Họ cảm thấy vui vẻ, phấn khích, hoặc hạnh phúc tột độ, không phù hợp với hoàn cảnh. Người bệnh có thể cười nói không ngừng, dễ xúc động, hoặc có những hành vi kỳ quặc.
- Tăng năng lượng: Cảm thấy tràn đầy năng lượng, hoạt động liên tục, không biết mệt mỏi. Người bệnh có thể tham gia vào nhiều hoạt động cùng một lúc, làm việc hoặc học tập đến khuya, hoặc di chuyển liên tục mà không cảm thấy mệt mỏi. Nghiên cứu của Kapczinski et al. (2008) chỉ ra rằng sự gia tăng năng lượng này có liên quan đến sự hoạt động quá mức của dopamine trong não.
- Giảm nhu cầu ngủ: Ngủ rất ít hoặc không cần ngủ mà vẫn cảm thấy tỉnh táo. Người bệnh có thể chỉ ngủ vài tiếng mỗi đêm mà vẫn cảm thấy tràn đầy năng lượng vào ban ngày. Tuy nhiên, việc thiếu ngủ kéo dài có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng hưng cảm và gây ra những vấn đề sức khỏe khác.
- Tăng hoạt động: Tham gia vào nhiều hoạt động cùng một lúc, nói nhiều, di chuyển liên tục. Người bệnh có thể nói nhanh, nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác, hoặc có những hành động bốc đồng, thiếu suy nghĩ.
- Tăng tự tin: Cảm thấy tự tin thái quá, đánh giá cao bản thân, thậm chí có những suy nghĩ viển vông. Người bệnh có thể tin rằng mình có tài năng đặc biệt, sức mạnh siêu nhiên, hoặc có thể đạt được những mục tiêu không tưởng.
- Dễ bị kích thích: Dễ nổi nóng, cáu gắt, hoặc hung hăng. Người bệnh có thể phản ứng thái quá với những kích thích nhỏ, dễ dàng bị kích động bởi những lời nói hoặc hành động của người khác.
- Suy nghĩ phi thực tế: Có những ý tưởng thiếu thực tế, hoang tưởng, hoặc ảo tưởng về sức mạnh, tài năng của bản thân. Người bệnh có thể tin rằng mình có thể điều khiển người khác bằng suy nghĩ, hoặc có thể dự đoán tương lai.
- Hành vi liều lĩnh: Tham gia vào các hoạt động nguy hiểm, chẳng hạn như lái xe quá tốc độ, đánh bạc, hoặc quan hệ tình dục bừa bãi. Hành vi liều lĩnh có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân người bệnh và những người xung quanh.
Hưng cảm nhẹ
Một giai đoạn hưng cảm nhẹ là một biến thể ít nặng nề hơn của hưng cảm liên quan đến một giai đoạn riêng biệt kéo dài ≥ 4 ngày với hành vi khác biệt rõ rệt bản thân bệnh nhân lúc bình thường không trầm cảm và bao gồm ≥ 3 trong số các triệu chứng bổ sung được liệt kê ở trên dưới hưng cảm.
Giai đoạn trầm cảm
Giai đoạn trầm cảm nặng ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực có những đặc điểm điển hình của trầm cảm ; giai đoạn này phải bao gồm ≥ 5 triệu chứng sau đây trong cùng khoảng thời gian 2 tuần và một trong số đó phải là tâm trạng chán nản hoặc mất hứng thú hoặc khoái cảm và, ngoại trừ ý nghĩ tự sát hoặc toan tự sát, tất cả các triệu chứng phải xuất hiện gần như mỗi ngày:
- Tâm trạng buồn bã: Cảm thấy buồn bã, chán nản, hoặc tuyệt vọng kéo dài. Cảm giác này không chỉ là thoáng qua mà có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng, ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống.
- Mất hứng thú: Mất hứng thú với các hoạt động từng yêu thích, kể cả các hoạt động mang lại niềm vui trước đây. Người bệnh có thể cảm thấy thờ ơ, lãnh đạm với mọi thứ xung quanh, kể cả những người thân yêu.
- Mệt mỏi: Cảm thấy mệt mỏi, thiếu năng lượng, không muốn làm gì. Người bệnh có thể gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như đi làm, đi học, hoặc chăm sóc bản thân.
- Khó ngủ: Mất ngủ, khó đi vào giấc ngủ, hoặc ngủ quá nhiều. Giấc ngủ của người bệnh thường không sâu giấc, dễ bị thức giấc, và không mang lại cảm giác nghỉ ngơi. Có thể có sự thay đổi trong giấc ngủ, chẳng hạn như khó đi vào giấc ngủ, thức giấc nhiều lần trong đêm, hoặc ngủ quá nhiều nhưng vẫn cảm thấy mệt mỏi.
- Thay đổi khẩu vị: Ăn nhiều hơn hoặc ít hơn bình thường, tăng hoặc giảm cân không rõ nguyên nhân. Người bệnh có thể chán ăn, ăn không ngon miệng, hoặc ngược lại, ăn rất nhiều để giải tỏa cảm xúc.
- Khó tập trung: Khó tập trung, dễ bị phân tâm, quên nhiều việc. Người bệnh có thể gặp khó khăn trong học tập, công việc, hoặc các hoạt động đòi hỏi sự tập trung.
- Cảm giác vô dụng: Cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, hoặc là gánh nặng cho người khác. Người bệnh có thể tự trách bản thân về những sai lầm trong quá khứ, hoặc cảm thấy mình không xứng đáng được yêu thương.
- Suy nghĩ tự tử: Có những suy nghĩ về cái chết hoặc tự tử. Đây là một triệu chứng nghiêm trọng cần được can thiệp kịp thời.
Các đặc điểm hỗn hợp
Một giai đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ được xác định là có đặc điểm hỗn hợp nếu ≥ 3 triệu chứng trầm cảm có mặt trong hầu hết các ngày của giai đoạn. Tình trạng này thường rất khó chẩn đoán và có thể chuyển sang trạng thái chu kỳ liên tục; sau đó tiên lượng xấu hơn so với ở trạng thái hưng cảm hay hưng cảm nhẹ.
Nguy cơ tự sát trong các giai đoạn hỗn hợp đặc biệt cao.
Các dấu hiệu khác
Ngoài các triệu chứng điển hình của hưng cảm và trầm cảm, người mắc rối loạn lưỡng cực cũng có thể gặp phải các triệu chứng khác, chẳng hạn như:
- Thay đổi nhận thức: Khó tập trung, suy giảm trí nhớ, hoặc gặp khó khăn trong việc ra quyết định. (Burdick et al., 2007)
- Ảo giác: Nhìn thấy, nghe thấy, hoặc cảm thấy những điều không có thật. (Saks, 2007)
- Hoang tưởng: Có những suy nghĩ phi lý, không có căn cứ, chẳng hạn như tin rằng mình bị theo dõi hoặc có sức mạnh siêu nhiên. (Goodwin & Jamison, 2007)
Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực
Việc chẩn đoán rối loạn lưỡng cực đòi hỏi sự đánh giá kỹ lưỡng của các chuyên gia sức khỏe tâm thần, chẳng hạn như bác sĩ tâm thần hoặc nhà tâm lý học lâm sàng. Quá trình chẩn đoán thường bao gồm:
Tiêu chuẩn chẩn đoán
Các chuyên gia y tế sẽ dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán trong DSM-5 (APA, 2013) để xác định xem một người có mắc rối loạn lưỡng cực hay không. Các tiêu chuẩn này bao gồm các tiêu chí về số lượng, thời gian, và mức độ nghiêm trọng của các giai đoạn hưng cảm và trầm cảm.
Các phương pháp chẩn đoán
- Phỏng vấn lâm sàng: Bác sĩ hoặc nhà tâm lý sẽ tiến hành phỏng vấn để thu thập thông tin về lịch sử bệnh, các triệu chứng, và ảnh hưởng của bệnh đến cuộc sống của người bệnh.
- Lịch sử bệnh: Bác sĩ sẽ xem xét lịch sử bệnh của người bệnh, bao gồm cả các bệnh lý tâm thần và thể chất khác.
- Đánh giá triệu chứng: Bác sĩ có thể sử dụng các bảng câu hỏi hoặc trắc nghiệm tâm lý để đánh giá mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.
- Loại trừ các bệnh lý khác: Một số bệnh lý khác có thể có các triệu chứng tương tự như rối loạn lưỡng cực, chẳng hạn như trầm cảm, rối loạn lo âu, hoặc rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Bác sĩ cần loại trừ các bệnh lý này trước khi đưa ra chẩn đoán rối loạn lưỡng cực.
Các phương pháp điều trị rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực là một bệnh mạn tính, nhưng có thể kiểm soát được với điều trị phù hợp. Các phương pháp điều trị chính bao gồm thuốc, liệu pháp tâm lý, và thay đổi lối sống.
Thuốc
Thuốc đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các triệu chứng của rối loạn lưỡng cực, ngăn ngừa tái phát, và giúp người bệnh ổn định tâm trạng. Việc sử dụng thuốc cần được thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của bác sĩ tâm thần, người sẽ lựa chọn loại thuốc và liều lượng phù hợp dựa trên tình trạng cụ thể của từng bệnh nhân.
Các loại thuốc thường được sử dụng
- Thuốc ổn định tâm trạng: Đây là nhóm thuốc quan trọng nhất trong điều trị rối loạn lưỡng cực. Lithium là một trong những loại thuốc ổn định tâm trạng được sử dụng phổ biến nhất, có hiệu quả trong việc ngăn ngừa cả cơn hưng cảm và trầm cảm (Geddes et al., 2004). Các loại thuốc ổn định tâm trạng khác bao gồm valproate, lamotrigine, và carbamazepine. Nghiên cứu của Bowden và các cộng sự (2000) cho thấy lithium có hiệu quả trong việc giảm nguy cơ tự tử ở những người mắc rối loạn lưỡng cực.
- Thuốc chống loạn thần: Thuốc chống loạn thần thường được sử dụng để kiểm soát các triệu chứng loạn thần, chẳng hạn như ảo giác và hoang tưởng, trong giai đoạn hưng cảm. Các loại thuốc chống loạn thần thế hệ mới, như olanzapine, quetiapine, và risperidone, thường được ưu tiên sử dụng vì ít tác dụng phụ hơn so với các loại thuốc thế hệ cũ. Nghiên cứu của Tohen et al. (2003) cho thấy olanzapine có hiệu quả trong việc điều trị giai đoạn hưng cảm cấp tính của rối loạn lưỡng cực I.
- Thuốc chống trầm cảm: Thuốc chống trầm cảm có thể được sử dụng để điều trị các triệu chứng trầm cảm trong rối loạn lưỡng cực. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc chống trầm cảm cần thận trọng, vì chúng có thể gây ra chuyển đổi sang giai đoạn hưng cảm ở một số người bệnh. Các loại thuốc chống trầm cảm thường được sử dụng bao gồm các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs) và các chất ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRIs). nghiên cứu của Ghaemi et al. (2003) cho thấy việc kết hợp thuốc chống trầm cảm với thuốc ổn định tâm trạng có thể hiệu quả hơn trong điều trị trầm cảm lưỡng cực so với việc chỉ sử dụng thuốc ổn định tâm trạng.
- Tuân thủ phác đồ điều trị: Dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ, ngay cả khi cảm thấy khỏe hơn. Không tự ý ngừng thuốc hoặc thay đổi liều lượng mà không có sự đồng ý của bác sĩ.
- Theo dõi tác dụng phụ: Một số loại thuốc có thể gây ra tác dụng phụ. Hãy báo cho bác sĩ biết nếu bạn gặp bất kỳ tác dụng phụ nào.
- Kết hợp với liệu pháp tâm lý: Thuốc có thể giúp kiểm soát các triệu chứng, nhưng liệu pháp tâm lý có thể giúp người bệnh hiểu rõ hơn về bệnh, phát triển các kỹ năng đối phó, và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Các liệu pháp điều trị tâm lý
Liệu pháp tâm lý đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ người bệnh rối loạn lưỡng cực kiểm soát triệu chứng, ứng phó với stress, và cải thiện chất lượng cuộc sống. Các liệu pháp tâm lý thường được sử dụng bao gồm:
- Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT): CBT giúp người bệnh nhận diện và thay đổi những suy nghĩ và hành vi không lành mạnh, đồng thời phát triển các kỹ năng đối phó với stress. Ví dụ, CBT có thể giúp người bệnh nhận ra những suy nghĩ tiêu cực và thay thế chúng bằng những suy nghĩ tích cực hơn. CBT cũng có thể giúp người bệnh học cách giải quyết vấn đề, kiểm soát cảm xúc, và xây dựng các mối quan hệ lành mạnh. (Lam et al., 2003)
- Liệu pháp nhân văn: Liệu pháp nhân văn tập trung vào việc giúp đỡ người bệnh hiểu rõ bản thân, chấp nhận cảm xúc của mình, và xây dựng các mối quan hệ lành mạnh. Liệu pháp nhân văn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự nhận thức, sự chấp nhận bản thân, và sự phát triển cá nhân. Nghiên cứu của Colom và các cộng sự (2003) cho thấy liệu pháp nhân văn có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm các triệu chứng trầm cảm ở những người mắc rối loạn lưỡng cực.
- Liệu pháp tâm lý gia đình: Liệu pháp tâm lý gia đình giúp cải thiện giao tiếp và hỗ trợ lẫn nhau trong gia đình, từ đó tạo ra môi trường sống ổn định cho người bệnh. Liệu pháp gia đình giúp các thành viên trong gia đình hiểu rõ hơn về rối loạn lưỡng cực, học cách giao tiếp hiệu quả, và cung cấp sự hỗ trợ cho người bệnh. Nghiên cứu của Miklowitz và các cộng sự (2003) cho thấy liệu pháp tâm lý gia đình có thể giúp giảm tỷ lệ tái phát và cải thiện chức năng xã hội ở những người mắc rối loạn lưỡng cực.
Sống chung với rối loạn lưỡng cực
Sống chung với rối loạn lưỡng cực là một hành trình dài, đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực và hiểu biết của cả người bệnh, gia đình và bạn bè. Tuy nhiên, với những chiến lược phù hợp, người bệnh hoàn toàn có thể kiểm soát các triệu chứng, ngăn ngừa tái phát, và sống một cuộc sống đầy đủ và ý nghĩa.

Quản lý triệu chứng
- Nhận biết các dấu hiệu sớm của cơn hưng cảm hoặc trầm cảm: Học cách nhận biết những thay đổi tinh tế trong tâm trạng, năng lượng, giấc ngủ, và hành vi có thể báo hiệu một cơn hưng cảm hoặc trầm cảm sắp xảy ra. Ví dụ, người bệnh có thể nhận thấy mình ngủ ít hơn, nói nhiều hơn, hoặc dễ bị kích thích hơn bình thường. Ghi chép lại tâm trạng và các triệu chứng hàng ngày có thể giúp nhận biết những thay đổi này (Bauer & McBride, 2003).
- Tuân thủ phác đồ điều trị: Dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ, ngay cả khi cảm thấy khỏe hơn. Không tự ý ngừng thuốc hoặc thay đổi liều lượng mà không có sự đồng ý của bác sĩ. Việc tuân thủ điều trị là yếu tố quan trọng nhất để ngăn ngừa tái phát (Colom et al., 2005).
- Xây dựng kế hoạch ứng phó với khủng hoảng: Lập kế hoạch trước về những việc cần làm khi các triệu chứng trở nên nghiêm trọng, chẳng hạn như liên lạc với bác sĩ, gia đình, hoặc bạn bè để được hỗ trợ. Kế hoạch này nên bao gồm danh sách các liên lạc khẩn cấp, các loại thuốc đang sử dụng, và các chiến lược đối phó đã được học trong quá trình trị liệu (Perry et al., 1999).
- Chăm sóc sức khỏe thể chất: Duy trì lối sống lành mạnh, bao gồm chế độ ăn uống cân bằng, tập thể dục thường xuyên, và ngủ đủ giấc, có thể giúp ổn định tâm trạng và giảm nguy cơ tái phát (Miklowitz et al., 2007).
- Hạn chế stress: Học cách quản lý stress thông qua các kỹ thuật thư giãn, thiền định, hoặc các hoạt động yêu thích. Stress là một yếu tố kích hoạt phổ biến của các cơn hưng cảm và trầm cảm (Johnson & Miller, 1997).
- Tránh các chất kích thích: Hạn chế hoặc tránh rượu bia, thuốc lá, và các chất kích thích khác, vì chúng có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng và gây ra tương tác thuốc (Swann, 2002).
Hỗ trợ từ gia đình và bạn bè
Gia đình và bạn bè đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người bệnh rối loạn lưỡng cực. Họ có thể:
- Tìm hiểu về bệnh: Hiểu biết về rối loạn lưỡng cực giúp gia đình và bạn bè thấu hiểu những khó khăn mà người bệnh đang gặp phải, từ đó cung cấp sự hỗ trợ phù hợp. Có nhiều nguồn thông tin đáng tin cậy về rối loạn lưỡng cực, bao gồm các trang web của NIMH và ADAA, cũng như các cuốn sách và tài liệu giáo dục.
- Lắng nghe và chia sẻ: Lắng nghe người bệnh chia sẻ về cảm xúc và suy nghĩ của họ, cung cấp sự đồng cảm và thấu hiểu. Tránh phán xét hoặc đưa ra lời khuyên khi chưa được yêu cầu.
- Khuyến khích tuân thủ điều trị: Nhắc nhở và hỗ trợ người bệnh dùng thuốc đúng giờ, đi khám bác sĩ định kỳ, và tham gia các buổi trị liệu tâm lý.
- Giúp người bệnh xây dựng lối sống lành mạnh: Khuyến khích người bệnh duy trì giấc ngủ đều đặn, chế độ ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên, và tham gia các hoạt động giải trí.
- Nhận biết các dấu hiệu cảnh báo: Quan sát những thay đổi trong tâm trạng và hành vi của người bệnh, và can thiệp kịp thời khi cần thiết.
- Tạo môi trường hỗ trợ: Cung cấp cho người bệnh một môi trường sống ổn định, an toàn, và đầy tình yêu thương.

Các nguồn lực hỗ trợ
Có nhiều nguồn lực hỗ trợ dành cho người bệnh rối loạn lưỡng cực và gia đình của họ, bao gồm:
- Các tổ chức về sức khỏe tâm thần: Các tổ chức như Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ (NIMH) và Hiệp hội Lo âu và Trầm cảm Hoa Kỳ (ADAA) cung cấp thông tin, tài liệu và các chương trình hỗ trợ cho người bệnh rối loạn lưỡng cực.
- Các cơ sở tâm lý uy tín (có chú thích nào cho mục này không các bạn? Đoạn này có thể đưa các dịch vụ kiểm tra của Viện vào)
- Các nhóm hỗ trợ: Tham gia các nhóm hỗ trợ giúp người bệnh kết nối với những người cùng cảnh ngộ, chia sẻ kinh nghiệm, và nhận được sự động viên từ những người hiểu rõ những gì họ đang trải qua. Depression and Bipolar Support Alliance (DBSA) là một tổ chức cung cấp các nhóm hỗ trợ trực tuyến và trực tiếp cho người bệnh rối loạn lưỡng cực và người thân của họ.
- Các trang web và ứng dụng di động: Có nhiều trang web và ứng dụng di động cung cấp thông tin, công cụ theo dõi triệu chứng, và hỗ trợ trực tuyến cho người bệnh rối loạn lưỡng cực. Ví dụ, ứng dụng eMoods giúp người bệnh theo dõi tâm trạng, giấc ngủ, và các triệu chứng khác, đồng thời chia sẻ thông tin này với bác sĩ hoặc nhà trị liệu.

Kết luận
Rối loạn lưỡng cực là một bệnh mạn tính, nhưng có thể kiểm soát được với điều trị phù hợp và hỗ trợ tích cực. Hiểu rõ về bệnh, tuân thủ phác đồ điều trị, và xây dựng lối sống lành mạnh là những yếu tố quan trọng giúp người bệnh ổn định tâm trạng, ngăn ngừa tái phát, và sống một cuộc sống đầy đủ và ý nghĩa. Nếu bạn hoặc người thân của bạn có các triệu chứng của rối loạn lưỡng cực, hãy tìm kiếm sự giúp đỡ từ các chuyên gia y tế.
Tài liệu tham khảo
- American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). American Psychiatric Publishing.
- Bowden, C. L., Fawcett, J., Paulus, M. P., Levitt, A. J., Swann, A. C., Winokur, A., … & Shelton, R. C. (2000). A randomized, placebo-controlled 12-month trial of divalproex and lithium in treatment of outpatients with bipolar I disorder. Archives of General Psychiatry, 57(5), 481-489.
- Burdick, K. E., Goldstein, J. M., Malhi, G. S., Oquendo, M. A., & Horan, W. P. (2007). Cognitive dysfunction in bipolar disorder: Future directions for research and treatment. The Journal of clinical psychiatry, 68 Suppl 14, 32-37.
- Clark, L., & Goodwin, G. M. (2008). Review of the cognitive deficits in bipolar disorder. The Journal of clinical psychiatry, 69 Suppl E1(E1), 6-13.
- Colom, F., Vieta, E., Martínez-Arán, A., Reinares, M., Benabarre, A., & Gascón, J. (2005). Preventing relapse in bipolar disorder: A randomized clinical trial of psychoeducation. The British Journal of Psychiatry, 186(5), 405-410.

Viện Trưởng Nguyễn Thị Thùy Dung
Viện Trưởng Nguyễn Thị Thùy Dung không chỉ là một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực tâm lý học mà còn là người tiên phong trong nghiên cứu và đào tạo tâm lý ứng dụng tại Việt Nam. Sinh ngày 20/01/1982 tại Đắk Lắk, quê quán Bình Định, chị đã không ngừng nỗ lực để đạt được thành tựu xuất sắc trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tâm lý học và giáo dục mầm non.
Là người sáng lập và điều hành Viện Nghiên cứu, Đào tạo và Ứng dụng Tâm lý (IPRTA), chị Dung đã dành trọn tâm huyết của mình cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển các phương pháp hỗ trợ trẻ em có nhu cầu đặc biệt, cũng như đào tạo đội ngũ chuyên gia tâm lý. Không chỉ giới hạn trong vai trò viện trưởng, chị còn sáng lập Trường Mầm non Em Bé Hạnh Phúc và Hệ thống trung tâm giáo dục, nhân văn, tủ sách Tâm lý “Ước Mơ Của Mẹ”, góp phần nâng cao nhận thức về tâm lý trẻ em trong cộng đồng.